Năm năm trường xa cách, cái chánh-sách áp-bức tôn-giáo gắt-gao của người Pháp làm cho tôi không được gần-gũi các người hầu giải-bày tường-tận Tôn-Chỉ Hành-Đạo của tôi.
Ấy không phải vì tôi cố ý muốn xa lánh các người, song chẳng qua vì sự bắt-buộc của kẻ cường-quyền nên tôi và các người không được trực-tiếp cùng nhau. Tuy-nhiên cũng có lắm thiện-nam tín-nữ rất trung-thành, một lòng gìn Đạo. Nhưng gần đây có vài kẻ hiểu lầm, hành-động một vài điều không hợp với tinh-thần đạo-đức, trái chủ-nghĩa từ-bi bác-ái và sự cao-thượng của giáo-pháp nhà Phật. Thế nên điều ấy làm cho quyển sách nhỏ nầy ra đời. Vậy từ nay trở đi tôi ước mong rằng với vài điều sơ-lược kể ra sau đây, toàn thể thiện-nam tín-nữ trong Đạo sẽ dùng trí-tuệ mình, suy-gẫm gìn-giữ ăn ở theo quy-tắc đã định, đặng tránh những việc đáng tiếc xảy ra, hầu giữ tròn danh-giá của Đạo Phật. Như thế chẳng phụ công ơn của Đức Bổn-Sư Thích-Ca Mâu-Ni đã khai sáng Đạo Phật và đã dìu-dắt quần-sanh tầm đường giải-thoát.
Nam-Mô Bổn-SƯ Thích-Ca Mâu-Ni Phật
HÒA-HẢO
* * *
NHỮNG ĐIỀU SƠ - LƯỢC
CẦN BIẾT CỦA KẺ TU-HIỀN
Đây là quyển thứ sáu mà
ĐỨC THẦY đã viết hồi tháng 5 dl 1945 tại Sàigòn.
Đạo Phật từ xưa đến nay luôn luôn phân làm hai hạng người :
1)Hạng xuất-gia,
2) Hạng tại-gia.
HANG XUẤT-GIA : Gồm có các nhà sư hay những ni-cô đã hoàn toàn ly-khai với gia-đình, quê-hương, bè-bạn, dựa thân vào cửa Thiền hoặc núi non am-cốc, hằng ngày chỉ chuyên lo kinh-kệ, săn-sóc cảnh dà-lam,trau-luyện đức lành, giồi-mài trí-tuệ hầu giảng-giải cho bá-tánh,thập phương nghe để quày đầu hướng thiện quy-y Phật pháp, không còn thiết đến việc đời. Gia-đình nhà-cửa của nhà sư là cả thế-gian,thân-quyến nhà sư là khắp cả nhân-loại đại-đồng. Đó là hạng người dốc tu cho mau thành Phật-quả, thoát kiếp luân-hồi.
HẠNG TẠI GIA : Gồm tất cả đại-chúng, tất cả thiện-nam tín-nữ chưa đủ những điều-kiện xuất-gia, vì cảm thấy mình còn nặng nợ với non-sông tổ-quốc, với gia-đình, với đồng-bào xã-hội, nên chưa thể làm như các nhà sư hay ni-cô đặng. Tuy vậy họ cũng sẵn-sàng hoan-nghinh ca-tụng lý-tưởng từ-bi bác-ái đại-đồng
Trang 180
của nhà Phật và Luật Nhân-Quả do Phật thuyết ra. Thế nên ở tại nhà, họ phượng thờ Đức Phật, phát-nguyện quy-y, giữ-gìn ít điều giới-luật, hằng coi kinh sách, sửa tánh, răn lòng, ủng-hộ các sư. Như thế họ cũng lần lần lên con đường giải-thoát.
Đây là hạng người học Phật tu Nhân.
Bàn xét như trên, thấy rằng toàn-thể trong Đạo chúng ta thuộc hạng tại-gia cư-sĩ, học Phật tu Nhân vậy.
Sách xưa có câu : Thiên kinh vạn điển hiếu nghĩa vi tiên (muôn vạn quyển kinh của Phật Thánh Tiên đều dạy sự hiếu-nghĩa làm đầu). Hôm nay đã quy-y đầu Phật tu-niệm tại-gia, ta hãy cố-g¡ng vưng lời Thầy, Tổ đã dạy, lo tròn câu hiếu-nghĩa.
Đức Thầy Tây-An thuở xưa thường khuyến-khích các môn-nhơn đệ-tử rằng : muốn làm xong hiếu-nghĩa có bốn điều ân ta cần phải hy-sinh gắng-gổ mới mong làm trọn.
1.-Ân Tổ-Tiên cha mẹ,
2.-Ân Đất-Nước,
3.-Ân Tam-Bảo,
4.-Ân Đồng-Bào và Nhơn-Loại:
(với kẻ xuất-gia thì ân đàn-na thí-chủ)
Ân Tổ-Tiên Cha Mẹ : Ta sanh ra cõi đời được có hình-hài để hoạt-động từ thuở bé cho đến lúc trưởng thành, đủ trí khôn-ngoan, trong khoảng bao nhiêu năm trường ấy, cha mẹ ta chịu biết bao khổ-nhọc nhưng sanh ra cha mẹ là nhờ có tổ-tiên nên khi biết ơn cha mẹ, cũng có bổn phận phải biết ơn tổ-tiên nữa.
Trang 181
Muốn đền ơn cha mẹ, lúc cha mẹ còn đang sanh-tiền, có dạy ta những điều hay lẽ phải ta rán chăm-chỉ nghe lời, chớ nên xao-lãng, làm phiền lòng cha mẹ. Nếu cha mẹ có làm điều gì lầm-lẫn trái với nhân-đạo, ta rán hết sức tìm cách khuyên-lơn ngăn-cản. Chẳng thế ta còn phải lo nuôi dưỡng báo đền, lo cho cha mẹ khỏi đói rách, khỏi bịnh-hoạn ốm-đau, gây sự hòa-hảo trong đệ-huynh, tạo hạnh-phúc cho gia-đình, cho cha mẹ vui lòng thỏa-mãn. Rán cầu cho cha mẹ được hưởng điều phước thọ. Lúc cha mẹ quá vãng, hãy tu cầu cho linh-hồn được siêu-thăng nơi miền Phật cảnh, thoát đọa trầm-luân.
Còn đền ơn tổ-tiên, là đừng làm điều gì tồi-tệ điếm-nhục tông-môn, nếu tổ-tiên có làm điều gì sai lầm gieo họa đau-thương lại cho con cháu, ta phải quyết chí tu cầu và hy-sinh đời ta làm điều đạo-nghĩa, rửa nhục tổ-đường.
Ân Đất-Nước : Sanh ra, ta phải nhờ Tổ-tiên, cha-mẹ, sống ta cũng nhờ đất-nước, quê-hương. Hưởng những tấc đất, ăn những ngọn rau, muốn cho sự
sống được dễ-dàng, giống nòi được truyền-thụ, ta cảm thấy bổn-phận phải bảo-vệ đất-nước khi bị kẻ xâm-lăng giày đạp. Rán nâng-đỡ xứ sở quê-hương lúc nghiêng nghèo, và làm cho được trở nên cường-thạnh. Rán cứu-cấp nước nhà khi bị kẻ ngoài thống-trị. Bờ-cõi vững lặng thân ta mới yên, quốc-gia mạnh giàu mình ta mới ấm.
Trang 182
Hãy tùy tài tùy sức, nỗ lực hy-sinh cho xứ-sở. Thảng như không đủ tài-lực đảm-đương việc lớn, chưa gặp thời-cơ giúp-đỡ quê-hương, ta phải rán tránh đừng làm việc gì sơ-xuất đến đỗi làm cho nước nhà đau-khổ, và đừng giúp sức cho kẻ ngoại địch gây sự tổn-hại đến đất-nước.Đó là ta đền ơn cho đất-nước vậy.
Ân Tam-Bảo :Tam-Bảo là gì ? -Tức Phật, Pháp, Tăng.
Con người nhờ tổ-tiên cha mẹ sanh ra nuôi dưỡng, nhờ đất-nước tạo kiếp sống cho mình. Ấy về phương-diện vật-chất. Về phương-diện tinh-thần, con người cần nhờ đến sự giúp-đỡ của Phật, Pháp, Tăng, khai mở trí-óc cho sáng-suốt. Phật là đấng toàn-thiện, toàn-mỹ, bác-ái vô cùng, quyết cứu-vớt sanh-linh ra khỏi vòng trầm-luân khổ-hải. Thế nên Ngài mới truyền lại giáo-pháp, tức là những lời chỉ dạy cho các chư tăng đặng đem nền Đạo cả của Ngài ban bố khắp trần-thế. Các chư tăng chẳng ai lạ hơn những đại đệ-tử của Đức Phật vậy. Bởi vì Đức Phật luôn luôn chỉ-dẫn và cứu-vớt quần-sanh thoát miền mê-khổ, nên ta hãy kính-trọng Phật, hãy tin-tưởng và tín-nhiệm vào sự-nghiệp cứu đời của Ngài, làm theo những điều chỉ dạy do các chư tăng cho biết. Tổ-tiên ta đã hiểu rõ sự nhiệm-mầu, lòng quảng-ái của Phật đối với chúng-sanh, đã kính trọng sùng-bái Ngài, đã hành-động đúng theo khuôn-khổ Ngài đã dạy và đã vun-trồng bồi-đắp cho nền Đạo được
Trang 183
phát-triển thêm ra, xây-dựng một tòa lầu-đài Đạo-hạnh vô thượng vô song, roi truyền mãi-mãi với hậu-thế.
Nên bổn-phận chúng ta phải noi theo chí đức của tiền-nhân hầu làm cho trí-tuệ minh-mẫn đặng đi đến con đường giải-thoát, dẫn-dắt giùm kẻ sa-cơ và nhứt là phải tiếp-tục khai-thông nền Đạo-đức đặng cái tinh-thần từ-bi bác-ái được gieo rải khắp nơi nơi trong bá-tánh. Như thế mới chẳng phụ công-trình vĩ-đại của Đức Phật và của tiền-nhân để lại và không đắc tội với kẻ đời sau vậy.
Ân Đồng-Bào và Nhân-Loại : Con người vừa mở mắt chào đời đã thấy mình phải nhờ đến sự giúp-đỡ của những kẻ ở xung quanh,và cái niên-kỷ càng lớn thêm bao nhiêu,sự nhờ-nhõi càng tuần-tự thêm nhiều chừng nấy.Ta nhờ hột cơm của họ mới sống,nhờ miếng ải của họ mới ấm thân,nhờ cửa nhà của họ mới tránh cơn phong vũ. Vui-sướng:ta đồng hưởng với họ.Hoạn-nạn:họ cùng chịu với ta.Họ và ta cũng một màu da,cũng nói một thứ tiếng.Ta và họ hợp nhau thì thành lại làm một : ấy là Quốc-gia đó. Họ là ai ?Tức những người ta thường gọi bằng đồng-bào vậy.Đồng-bào ta và ta cùng chung một chủng-tộc,cùng một nòi giống roi-truyền,cùng có những trang lịch-sử vẻ-vang oanh-liệt, cùng tương-trợ lẫn nhau trong cơn nguy-biến, cùng chung phận-sự đào-tạo một
Trang 184
tương-lai rực-rỡ trong bước tiền-đồ của giang-san đất nước. Đồng-bào ta và ta có một liên-quan mật-thiết,không thể rời nhau, chẳng thể chia nhau,và chẳng khi nào có ta mà không có đồng-bào, hay có đồng-bào mà không có ta.Thế nên, ta phải rán giúp-đỡ họ hầu đáp đền cái ơn mà ta đã thọ trong muôn một.Chẳng những thế thôi, ngoài đồng-bào,ta còn có thế-giới người đang cặm-cụi cần-lao cung-cấp những điều nhu-cầu cần-thiết. Họ là nhân-loại,là những người đang sanh sống với chúng ta trên quả địa-cầu.Nếu không có nhân-loại, thử hỏi dân-tộc ta ra như thế nào ? Ta có đủ vật-liệu để dùng chăng ? Ta có thể tự-túc một cách đầy-đủ chăng ? Nói tóm lại, ta có thể lẻ-loi đương đầu với những khi phong vũ nhiệt hàn,với những lúc ốm-đau,nguy-biến, giữ vững cuộc sống còn nầy chăng ? Hẳn không vậy.Thế nên dân-tộc ta phải nhờ đến Nhân-loại,nghĩa là nhờ đến dân tộc khác và phải biết ơn họ. Hãy nghĩ đến họ cũng như mình nghĩ đến mình và đồng-chủng mình.
Vả lại cái tình từ-bi bác-ái của Đức Phật mà ta đã nhận thức, rất thâm-huyền quảng-huợt. Cái tình ấy,nó không bến không bờ,không phân-biệt màu da,không phân-biệt chủng-tộc:nó cũng không luận sang hèn và xóa bỏ hết các tầng lớp đẳng-cấp xã-hội,mà chỉ đặt vào một:Nhân-loại Chúng-sanh.
Thế, ta không có lý-do gì chánh-đáng để vì mình hay vì đồng-bào mình,gây ra tai-hại cho các dân-tộc khác.Trái lại,hãy đặt vào họ một tư-tưởng nhân-hòa,
Trang 185
một tinh-thần hỉ-xả và hãy tự xem mình có bổn-phận giúp-đỡ họ trong cơn hoạn-nạn.
Đối với những kẻ xuất-gia quy-y đầu Phật, phụ vào những ân-huệ đã thọ như đã nói trên,họ còn phải trực-tiếp chịu-ân của các đàn-na thí-chủ,nghĩa là những thiện-nam tín-nữ có hảo-tâm cung-cấp những vật dụng cần-thiết cho họ.Họ nhờ đến hột cơm,đến miếng vải,đến thuốc men đặng sanh sống.Rốt lại họ phải nhờ đến sự nuôi dưỡng hoàn-toàn của những kẻ tốt lòng.
Với quần-sanh,họ mang cái ân rất nặng cho nên họ phải dìu-dắt sinh-linh đi tầm Chân-lý đặng đáp-tạ tấm lòng chiếu-cố của Thiện tín.
LUẬN VỀ TAM NGHIỆP :
Sanh ra ở đời,con người dầu muốn hay dầu không, cũng phải chịu dưới sự chi-phối của định-luật thiên-nhiên. Định-luật ấy gồm vào một chữ Đạo,đạo của con người kêu bằng Đạo Nhân, và nó là một con đường đi trúng thì sống,bước trật tất chết.
Muốn làm tròn Nhân-Đạo,phải giữ vẹn tứ ân.Nhưng trước hết hãy tránh Tam-nghiệp và chừa Thập-ác, cũng như muốn làm giàu phải tránh đừng cho thiếu nợ.
Mỗi người đều có ba nghiệp chướng sau đây :
Thân-nghiệp:(tội lỗi do xác-thân gây nên)
Khẩu-nghiệp:(tội lỗi do miệng-lưỡi gây nên)
Ý-nghiệp :(tội lỗi do ý-tưởng gây nên)Ba nghiệp-chướng ấy khiến con người phạm mười điều ác kể ra dưới đây :
Thân-nghiệp sanh 3 điều ác :
1) Sát-sanh
2) Đạo-tặc
3) Tà-dâm
Khẩu-nghiệp sanh 4 điều ác :
1) Lưỡng-thiệt
2) ỷ-ngôn
3) Ác-khẩu
4) Vọng-ngữ
Ý-nghiệp sanh 3 điều ác :
1) Tham-lam
2) Sân-nộ
3) Mê-si
Trang 187
Sát-Sanh.- Con người mới sanh ra ở đời đều có tánh hiền lành cả. Song đến lúc lớn khôn vì phải sống chung-chạ với thế-giới người hung-tàn bạo-ngược, tánh-nết liền ô-nhiễm những sự xấu-xa hèn kém, trở nên độc-ác dữ-dằn.
Loài người giết nhau vì tiền bạc, vì sắc đẹp, vì lợi-danh, vì quyền-thế, vì thù-hiềm, vì háo thắng... nghĩa là họ giết nhau vì sự ích-lợi của một người, của một nhóm người, của một đẳng-cấp xã-hội, của một quốc-gia ; họ muốn tiêu-diệt tất cả nhân-loại, không một ai có quyền sống sanh cùng họ cả.
Tại trào-nội, sự mà vua coi bầy tôi như cỏ rác, bầy tôi sánh vua như thể địch-thù đã làm nguyên-nhân cho biết bao cuộc tương-tàn tương-sát. Ngoài lê-thứ thì con giết mẹ cha, tớ hại chủ, trò giết thầy, chồng vợ giết nhau, đệ huynh xâu-xé. Những cuộc tương-tàn rất thường xảy ra trong nhân-loại không ngoài các lý-do đã kể trên. Đó là người đối với người.
Người đối với thú-cầm sanh-vật còn tàn-nhẫn gấp mấy nữa : họ giết thú-vật vì miếng ăn, vì sự dị-đoan mê-tín, vì sự vui thích. Đành rằng mình không thể dứt tuyệt giết các sanh-vật (gà, vịt, heo...) để nuôi thân sống ; nhưng chẳng khá dựa vào lý vật dưỡng nhơn (thú-vật sanh ra đặng nuôi con người) mà giết nó một cách quá đáng. Chỉ cần dùng nó vừa đúng theo sự nhu-cầu cần-thiết của các món thực-phẩm mình thôi mà không nên hoang phí hy-sinh nó, nếu sự hy-sinh ấy không ích-lợi cho mình lắm. Nhứt là chẳng khá giết
Trang 188
các thú-vật trong khi tế-lễ. Người ta tưởng rằng khi mình phạm tội với Thánh, Thần, Trời, Đất có thể sát hại sanh-vật cúng-tế cầu cho tội-quả tiêu-trừ. Sự tin-tưởng ấy rất sai-lầm huyễn-hoặc, vì đứng vào bực siêu-hình cao-cả như chư-vị Thánh Thần, có lý nào vì một tình riêng làm sai chạy lẽ công. Khi gặp tai-nạn bất ngờ hay rủi ro đau ốm, con người không chịu thuốc-thang, khẩn vái Phật Trời cầu cho tai qua nạn khỏi, lại giết các thú vật tế Thần cúng Thánh, kêu cốt, kêu đồng. Họ không chịu tìm nguyên-nhân các sự họa-hoạn, không chịu tìm hiểu rằng những tai-biến xảy ra đều do căn tiền báo quả hậu, và không chịu ăn-năn chừa lỗi, tạo-tác phước điền. Trong khi giết các thú-vật đặng tế-lễ, họ đã phạm thêm một tội ác lúc họ chưa đền-bồi các tội ác trước được.
Chẳng những vậy thôi, họ còn giết các thú-vật vì sự vui thích của mình ; kẻ bắn chim đang bay trên trời, người chặt cá đang lội dưới nước. Họ bắt thú-vật làm tấm bia cho họ nh¡m trong những khi cao hứng, quên hẳn rằng sanh-vật cũng có linh-hồn, cũng có thân-xác, cũng biết tìm lẽ sống còn như nhân-loại vậy.
Thế nên, hãy tha-thứ cho chúng, hãy dung-dưỡng chúng và nhứt là đối với các gia-súc : trâu, bò, ngựa, chó, mèo... chẳng khá sát-hại, vì chúng đã giúp ích cho
ta trong các việc sanh-hoạt hằng ngày. Tóm lại, không có sự sát-sanh vô cớ nào có thể tha-thứ được và trong những ngày chay lạt hãy cữ hẳn.
Đạo-Tặc.- Câu Bần cùng sanh đạo-tặc cần phải
Trang 189
là một câu chữa mình của bọn bất-lương vô đạo. Những kẻ nầy ngày vẩn-vơ đầu đường xó chợ, tối kiếm chỗ khoét vách đào tường, không làm muốn có ăn, không lo muốn có mặc. Lớp người cặn-bã của xã-hội nầy, sống ngoài vòng pháp-luật, trốn nhủi trốn chui, phá rối sự an-ninh của dân-chúng, chuyên lo giết người cướp của, đoạt giựt tài-sản lương dân, không nghĩ rằng phải tốn bao nhiêu giọt mồ-hôi, bao nhiêu dòng nước mắt mới làm ra được. Họ là giống sâu làm rầu nồi canh, là tội-nhân gây ra những tai-biến trong những gia-đình cần-lao kiệm-tiết, là nguyên-nhân của sự nghèo sự khó, họ phá-hoại hạnh-phúc của con người.
Cơ-hàn đói-khó, thay vì phải làm-lụng như những kẻ khác mưu cuộc sống còn, họ gây cái lỗi nầy rồi đến cái lỗi khác, phạm tội nầy rồi tới tội nọ, tạo chẳng biết bao nhiêu chuyện bất lành cho nhân-chủng. Lưới trời tuy thưa nhưng khó lọt, những kẻ ấy dầu họ không bị luật hình của loài người phân xử, song cơ Trời cũng sẽ báo ứng đến những hành-vi đen tối, nếu họ không chịu ăn-năn chừa lỗi, sửa tánh tu-thân, bỏ thói vô-nghì lánh điều phi-nghĩa.
Tà-dâm:Muôn việc lành hiếu-thuận đứng đầu, ngàn việc dữ tà-dâm đứn trước Sách sử thường bảo như thế.
Lần dở xem sử sách, thời thấy tội ác ấy lan-diễn khắp nơi, từ trào-nội cho đến thứ-dân, từ trong gia-đình đến kẻ xa người lạ ; nó là mầm gây ra biết bao thảm
Trang 190
trạng ! Gương của vua Tề với vợ Thôi-Tử, An-lộc-Sơn với Dương-quí-Phi há chẳng còn lưu-liên hậu thế ? Giàu ỷ của hiếp-dâm kẻ khó, quan ỷ quyền cưỡng-bức đám dân hèn. Gian-phu dâm-phụ, từ xưa đến nay luôn luôn đều có.
Muốn tránh sự bại-hoại nền luân-lý nước nhà, muốn giữ-gìn tiếng tăm của gia-thế, phải đừng để dục-tình lôi cuốn, bắt chước gương xưa trau-giồi lòng hiếu-trung trinh-tiết.
Lưỡng-thiệt.- Đứng đầu các tội ác do miệng lưỡi gây ra, ác lưỡng-thiệt nầy đã làm duyên-cớ cho những sự hiểu lầm nhau, những sự cãi-vã, gây-gổ sanh oán sanh thù. Sự phải của người thì bớt, sự quấy của người thì thêm, cái lưỡi đã tạo những sự chia rẽ, những cuộc phân-tranh, phá tan sự đoàn-kết, tình thân-yêu giữa nhân-loại. Nó cũng là nguồn-cội của bao nhiêu bất hòa, hiềm-khích.
Để giải-trừ những tai-vạ ấy, phải giữ cho lời nói mình được thành-thật chánh-đáng, được vậy trong hương-đảng mới bớt rầy-rà, ngoài xã-hội không điều xích-mích và mình cũng không còn chịu ác-cảm, tránh sự miệt-khinh của kẻ khác.
ỷ-ngôn.- Nói đến tội nầy tức là nói đến những vụ chủ ỷ quyền nhiếc xài tôi tớ, quan ỷ thế mắng chưởi dân ngu. Kẻ giàu có thường ỷ tiền bạc xài-xỉ người nghèo, kẻ xảo-quyệt ỷ sự khôn lanh nói những điều thất thiệt, kẻ học-thức ỷ sự khôn-ngoan dùng lời nói hạ-nhục người dốt-nát.
Trang 191
Hãy tránh những sự hiếp người như thế ấy, vì những kẻ dưới tay mình cũng có đầu óc, cũng biết nghĩ suy, nhưng tại họ bạc-phước vô phần nên phải chịu lụy mình vậy. Nếu họ có lỗi lầm hãy dạy-dỗ họ, dùng những cam-ngôn mỹ-từ, những lời trang-nghiêm êm-dịu chỉ bảo, không khá bao-biếm mà mang điều tội-lỗi.
Ác-khẩu.- Những tiếng thề-thốt, lỗ mãng, chưởi mắng tục-tằn làm ra tội nầy ; con chưởi mẹ mắng cha, không kể luân-thường thảo-hiếu; mạnh-bạo hăm-he đánh giết những kẻ yếu-hèn, hiếp-đáp xóm chòm cô bác. Mở miệng ra chưởi gió mắng mây, trù rủa gia-đình, không kiêng Thần Thánh. Tối ngày kêu réo Phật Trời, mời thỉnh Long-cung, làm cho tội-lỗi càng thêm chồng-chập.
Hãy bỏ những tiếng tục-tằn thô-lỗ, làm cho đời sống được êm-dịu thanh-bai hơn. Đối với cha mẹ phải có lễ độ, với gia-đình, với bà con cô bác, với xóm chòm quen thuộc, lời nói mình phải đoan-trang nghiêm-chỉnh. Đối với con cháu trong nhà, không nên nói những điều ác đức phải dùng lời nói dịu-dàng hiền-hậu dạy-dỗ chúng.
Vọng-ngữ.- Thêm thừa, huyễn-hoặc, có nói không, không nói có, ác vọng-ngữ đã làm nguyên-nhân cho những sự bất công của nhân-loại. Thương người nào kiếm cách bào-chữa, giấu-giếm sự quấy và thêu-thùa sự tốt ra, ghét ai đặt điều nói xấu và che đậy cái điều phải của họ. Khoe-khoang tự-đắc, xảo-trá đa-
Trang 192
ngôn, những kẻ điêu-ngoa làm cho thiên hạ khinh-khi miệt-thị.
Muốn tránh những điều khiến cho tư-cách nhân-quần phải bị giảm hạ, hãy tập tánh nói năng chân-chánh, bỏ lối láo-xược trớ-trêu. Chẳng nên tráo-chác với người, bỏ tiếng xảo-ngôn và phải dùng lời chơn-chất.
Tham-lam.- Tánh tham-lam đã làm cho loài người phải chịu bao nhiêu thảm khổ : Chiến-tranh, cướp bóc, giết người... tham danh, tham lợi, tham sắc, tham tài, tham quyền, tham thế... Những sự ấy đã xô đẩy con người vào chẳng biết bao nhiêu cuộc chiến-đấu ác-liệt, gây nên những thảm-họa tày trời. Những tấn tuồng giặc giã, cướp của sát nhơn, những vụ hối-lộ, những vụ tranh thế giành quyền đã làm cho nhân-sanh điêu-linh trong vòng tai-nạn khốc-hại. Cái tham ấy cũng đã làm cho con người đau buồn hận khổ, phải khóc đứng than ngồi, phải liều mình tự-sát chỉ vì sự ham muốn không được thực-hiện ; người ta quyên-sinh vì tình yêu, vì lợi quyền, vì thất trận... Những cuộc cấu xé lẫn nhau, những vụ nồi da xáo thịt, những tương sát tương tàn, những điều hung-hăng bạo-ác cũng do sự tham-lam mà ra cả. Ngày giờ nào loài người diệt được tánh ham muốn của mình, ngày giờ ấy bớt được một phần lớn của sự khổ. Vả lại, ở đời phải có những lúc thăng trầm chìm nổi, có thì ta xài,không ta nhịn, can gì phải bày mưu tính kế chiếm đoạt của kẻ ngoài. Của là của chung trong thiên-hạ, đời ta còn, nó còn ; đời ta mất, nó mất ; gương Thạch-
Trang 193
Sùng Vương-Khải há không để lại cho ta một bài học đích-đáng lắm ru ? Thế nên hãy nghĩ đến người cũng như mình nghĩ đến mình, hãy dẹp lòng vị-
kỷ tham lam, lo vun-trồng phước-đức, bố-thí cho kẻ nghèo hèn, rán công-phu sám-hối để có thể yên vui nơi miền Cực-Lạc, lánh sự giả tạm ở cõi trần nầy.
Sân-nộ.- Tánh nóng-nảy thường xúi con người làm những chuyện bất-công sái phép, chém giết oán-thù nhau. Kẻ thắng kiêu-hãnh, người bại hổ-ngươi, nên sự hiềm-thù càng lan rộng. Giận mất khôn, cơn giận làm cho con người cuồng trí, mất sự tự chủ, trở nên dữ-dằn bạo-tợn, chẳng còn nghĩ đến việc công-bình, lẽ phải trái.
Diệt được nó tâm ta được thảnh-thơi, trí ta được thong-thả. Hãy mở lượng khoan hồng dung tha kẻ lầm lỗi. Hãy nhẫn-nhịn và chẳng nên cãi cọ tranh luận hơn thua làm cho nảy sanh ra những điều hiềm-khích.
Mê-si.- Tội ác nầy do sự thiếu óc phán-đoán, thiếu sự nghĩ suy mà ra; vì vậy con người ít hay phân-biệt được lẽ phải trái, bo-bo giữ thiển kiến sai lầm, chẳng chịu nhìn-nhận chân-lý, suốt cả đời ngu muội, chỉ biết mê-man theo những vật nhỏ-nhen, mau tan, mau rã, chỉ biết tin bướng làm càn, không tìm hiểu con đường giải-thoát.
Hãy xóa bỏ các điều mê-tín, qui-thuận theo tinh-thần đạo-đức, lánh chốn mê-lầm tỉnh cơn mộng-huyễn, phá tan màn vô-minh che mờ tâm trí, lần bước trên con đường đạo-hạnh, đi đến chỗ Bất diệt, Bất sanh
LUẬN VỀ BÁT CHÁNH:
Trừ xong ba nghiệp-chướng, hãy làm theo tám điều chánh, và sau khi diệt được thập ác rồi, tự nhiên mười điều lành hiện ra; như thế ta đã đi thêm được một bước trên con đường Đạo-hạnh. Nhưng sự tấn-bộ ấy không có nghĩa là đạt được mục-đích. Thế nên, cần phải hành luôn Đạo Bát-Chánh tiếp theo, vì đó là quyển kinh nhựt tụng của những ai muốn thoát chốn mê-đồ, tấn-triển trên đường Giải-Thoát.
Bát-Chánh gồm có :
1.- Chánh kiến
2.- Chánh tư-duy
3.- Chánh nghiệp
4.- Chánh tinh-tấn
5.- Chánh mạng
6.- Chánh ngữ
7.- Chánh niệm
8.- Chánh định
Chánh kiến.--Chánh : đúng sự thật --Kiến : thấy, xem xét. Chánh-kiến : dòm thấy, xem đúng theo sự thật.
Phàm con người thường hay bị bản-ngã lôi cuốn, trí mờ-ám làm cho sai-chạy ít nhiều sự thật. Khi vì thiếu sự sáng-suốt, khi vì tư thù, khi vì lợi kỷ, khiến cho con người không biết đường ngay nẻo thẳng nên sự phán-đoán không công-bình chánh-đáng, làm cho kẻ khác chịu oan tình. Vì thế, mục Chánh-Kiến dạy ta phải đem hết trí-năng truy-cứu các sự r¡c-rối, cẩn-thận
Trang 195
xem xét tránh sự lạc lầm trong khi phê đoán bất cứ việc gì, dầu của mình hay của kẻ khác. Sự quan-sát cực điểm, cách xét đoán tận tường, tránh cho ta những tà-kiến (sự xem xét lầm lạc) sai chạy, khiến ta dẹp bản-ngã đã làm cho trí-tuệ mịt mờ u-ám ; giúp cho ta hiểu biết được rõ ràng, minh-bạch, cách phán-đoán được ngay thẳng, công-bình.
Chẳng thế, nó còn giúp cho ta hiểu biết các điều tục-lụy trong trần, biết được lẽ nhiệm-mầu tôn-giáo khiến ta xua đuổi các điều tà-mị, bỏ các sự say-mê, trở về với đạo-lý, thoát đọa hồng-trần. Nó tránh cho ta tất cả sự giả-dối và nhờ thế nên ta khỏi bị lạc lầm trong khi hành Đạo.
Chánh tư-duy .- Tư-tưởng - chơn-chánh
Sanh ra ở trong trần con người thường hay bị các thị-dục cám-dỗ: lợi danh, quyền-tước, nghĩa vợ tình chồng...; cái tư-tưởng đã rù quến tâm trí mãi mãi quây cuồng vào những sự ấy, không thế nào thoát-ly ra được. Ấy về phần tà. Phần chánh dạy rằng : tâm cần phải bình, tánh cần phải tịnh, giữ tư-tưởng cho thanh-cao, trí rán tìm cái Chân-lý. Chân-lý ấy là cái Đạo của mình đối với nhân-loại, của mình đối với Trời Phật, của mình đối với mình. Vì thế, hãy đặt tư-tưởng mình vào công cuộc tìm phương cứu giúp sanh-linh trong vòng trầm-luân oan-nghiệt. Hãy tin-tưởng Phật Trời và cầu nguyện đấng Thiêng-liêng ban-bố phước lành cho nhân chúng. Hãy tìm con đường giải-thoát cho mình bằngcách lạc Đạo an bần, xả thân tu tỉnh.
Trang 196
Chánh-nghiệp.- Việc làm chánh-đáng ngay thẳng.
Đối với kẻ xuất-gia đầu Phật, ngoài những lúc tham-thiền nhập-định, những khi trì tụng kinh hành, những khi đọc kinh viết sách, những lúc công-quả cho nhà Thiền, chẳng có làm việc chi có thể tạo thành ác nghiệp cả.Những kẻ tại gia cư-sĩ, trái lại, còn cần phải lo kế sinh nhai, mưu cuộc sống còn ; kẻ buôn tảo bán tần, người việc nầy việc nọ, tóm lại cũng tại vì xác thân mà ra cả.Tuy nhiên, dầu đời sống của họ có bị sự sinh nhai chi-phối song cái chi-phối ấy,khác hẳn với kẻ gian-tà đạo-tặc, chẳng có làm việc gì xảo-trá bất nhân.Trong cuộc mưu cầu cho lẽ sống, họ cũng nguyện bỏ những nghề-nghiệp gây tai hại cho con người : nuôi điếm, bán á-phiện, buôn rượu,đầu-cơ,cho vay cắt cổ, v.v...Đành rằng những người buôn bán ấy không có ép buộc bạn hàng,song tại có họ làm các nghề-nghiệp ấy,con người mới bị hư-hỏng, trụy-lạc,hoang-đàng, trà đình tửu-điếm...Họ là đồng-lõa mà phạm-nhân là những kẻ nghiện-ngập say-sưa.Thế nên mục Chánh-nghiệp răn-cấm chúng ta làm các nghề ấy.Kẻ tại gia cư-sĩ cũng chẳng sát hại vô cớ các sanh-vật,hoặc không đánh đập chém đâm ai có thể gây ra nhiều điều tội-lỗi.
Trang 197
Chánh tinh-tấn .- Tín-ngưỡng chơn-chánh và lướt tới.
Phái vô-thần-luận thường cho rằng thân xác tức là con người.Thân còn tức là người còn,thân mất, người mất.Không có Thánh,Thần,Trời, Phật, không có quả-báo luân-hồi ; cũng chẳng có tội,có phước,có vía,có hồn. Đời là thân-xác con người, sống là tranh-đấu,mạnh được yếu thua.Thế nên biết bao nhiêu mánh-khóe gian-hùng,bao nhiêu ngón điêu-ngoa xảo trá,bao nhiêu tàn-bạo ngược-ngang đều được đem ra dùng cả thảy.
Vì vậy mục Chánh-tinh-tấn nầy khuyên hãy rán giữ đức-tin cho mạnh-mẽ. Dầu các thị-dục có lớn-lao thế mấy,dầu cho có sức lực gì cám-dỗ hay bức-bách bỏ lòng tín-ngưỡng Phật Trời đặng theo việc khác, các sự ấy cũng chẳng thế lôi kéo được.Và ta luôn luôn phải nhớ đến công cuộc cứu-vớt quần-sanh thoát nơi khổ-hải của Đức Thế-Tôn, phải nhớ rằng sanh-linh đang chìm-đắm trong bể hồng-trần,rằng ngày giờ nào còn có kẻ trong chúng-sanh chịu khổ thì ta cũng phải khổ vì họ vậy,rằng ta có cái bổn-phận giác-ngộ trần-gian bỏ những oan-trái luân-hồi cay-nghiệt. Muốn thế trước hết phải tìm phương tự-giác,nhắm cảnh Niết-Bàn tấn-tới ; quyết chí tu hành đắc thành Đạo quả hầu dắt-dìu bá-tánh thập phương xa miền tục-lụy. Người bỏ hết các sự rầu-buồn các điều tà-vạy,dẹp lục-căn, lục-trần và rán làm cho tinh-thần được thêm sáng-suốt,rèn luyện các đức tánh cho thiện-mỹ:yên-tịnh,
Trang 198
hỉ-lạc, nghiêm-trang quyết gắng công phu, một lòng bước tới Niết-Bàn đặng có tế-độ chúng-sanh thoát khỏi luân-hồi quả-báo.
Chánh-mạng.- Sanh mạng chân-chánh,trong sạch.
đời người ta hay lấy xác thân mình làm gốc và hay quí trọng săn-sóc nó. Ấy cũng do lục-căn mà ra:nhãn,nhĩ,tỹ,thiệt, thân,ý.Mắt ưa xem sắc đẹp, tai ưa nghe tiếng hay,mũi ưa ngửi hương thơm, lưỡi ưa đồ ngon béo, thân ưa sự sung-sướng,ý ưa chức phận cao.Người ta tìm đủ phương-thế bổ-dưỡng thân xác mình,làm cho trí-tuệ càng ngày càng thêm mờ-ám,ngu-đần,không còn lo-lắng đến sự tiêu-diệt.
Thế nên,hãy xa lánh những điều làm tinh-thần bị đen-tối; bỏ hết đài-các xa-hoa, thân mình tự-chủ để tìm chỗ bất diệt bất sanh; thiền-định đặt làm thể,trí-tuệ đặt làm mạng,linh-hồn nhập liên-hoa, siêu-sanh vào cõi Niết-Bàn.
Chánh-ngữ.- Lời nói chơn thật.
Lục-căn làm con người nhiễm lục-trần.
Vì muốn nuôi dưỡng xác thân nên mới sanh ra các điều ham-hố là nguồn-cội các tội-lỗi.Trong những điều tội-lỗi ấy cũng có nghiệp-chướng của miệng
ãy tập lời nói mình cho chân-chánh,đúng với sự thật ; hãy bỏ hết những xảo ngôn tráo-chác, những tiếng thô-lỗ cộc-cằn,phàm những khi bàn luận việc chi,phải nói tỏ tường ngay thẳng. Đối với kẻ dưới bề trên, lời nói phải cho hiền-lương đức-hạnh và những sự khuyên dạy chỉ bảo kẻ khác làm theo lẽ phải đều có ích-lợi cho chúng sanh và đều hạp với tinh-thần đạo-đức.
Chánh-niệm.- Ghi nhớ sự chân-chánh.
Còn cũng tưởng, mất cũng tưởng,có cũng tưởng,không cũng tưởng, thành cũng tưởng, bại cũng tưởng,thương cũng tưởng,ghét cũng tưởng...Thất-tình lục-dục bắt buộc con người phải phí biết bao nhiêu tâm cơ, bao nhiêu trí-não phụng-sự nó. Danh-lợi, cảm-tình,uy quyền, phú-quí...được hằng ngày ghi nhớ. Vì thế con người mãi mãi lăn-lộn trong sáu đường không thoát khỏi vòng sanh tử.
Để thoát chỗ luân-hồi bỏ cuộc đời lầm-than hoạn-họa,hãy rán tưởng-niệm phương-pháp hành Đạo, bỏ các điều phù-phiếm,ghi nhớ công-lao Đức Phật đối với quần-sanh,bia tạc vào lòng những điều Phật giáo. Phải nhớ rằng xác-thân do tứ-đại (đất, nước,lửa, khí) tạo thành và sớm muộn gì nó cũng sẽ bị tan rã. Đặng vậy,ta mới bỏ được các sự xúc-động,các mối dục-tình tránh điều lụy khổ do nó gây nên.
Chánh-định.- Suy-gẫm chân-chánh
Con người thường hay có những ý-định làm cho mình được sáng thêm lên, được giàu thêm lên,được
Trang 200
sung-sướng thêm lên...nghĩa là những ý-định hoàn toàn nhỏ-nhen thấp-thỏi. Họ không hiểu rằng cuộc đời là giả-tạm,nay vầy mai khác, thân-thế lạc-luân,của-cải gia-tài như đám phù-vân trước gió,nước bọt, mây bèo.Những cái sanh,cái bịnh,cái lão,cái tử được đặt lên cuộc đời của người nầy rồi đến người khác...rồi đến người khác nữa,nghĩa là tất cả Nhân-Loại không thiếu sót một ai.Thế mà,họ vẫn cuống-cuồng tâm trí theo bả lợi-danh,mùi phú-quí,đi theo những vặt-vụn,tiểu-ti,eo-hẹp.
Họ không chịu hiểu rằng ngoài kiếp phù-du của trần-thế,có cái gì không di không dịch,vĩnh-viễn trường tồn.Nếu lấy sự Thiền-định phá tan màn u-minh che phủ, thì thấy rằng ở cảnh ấy con người sẽ hết buồn hết khổ,hết quả-báo luân-hồi.Và khi ta dùng sự chánh-định dẹp bỏ hết các sự phiền-não rầu buồn, phá tan các làn sóng thị-dục lôi kéo vào những nẻo tà,tâm ta chẳng còn xao-động,trí ta tỏ rạng như trăng rằm, một màu sáng suốt,không
nhiễm ô cảnh ngoại,dứt tuyệt hết sự phàm-trần,lần bước đi đến cõi Giải-thoát.